Chia sẻ, lưu trữ tờ nhạc xưa được xuất bản trước 1975...
Mọi đóng góp xin gởi về: dongnhactruoc1975@gmail.com
Support us: https://www.paypal.me/ntntn - Xin cảm ơn!
THÚ CHƠI TỜ NHẠC XƯA
Thật ra không biết dùng từ gì cho chính xác để nói về sản phẩm âm nhạc hết sức đặc biệt này. Nhạc tờ, nhạc lá, bản nhạc hay tờ nhạc đều được dùng để nói về một tờ giấy khổ lớn gấp lại thành tương đương khổ A4, có bốn trang. Trang đầu là bức tranh, in tựa đề và vài dòng nói về nội dung bài hát. Hai trang giữa là bản nhạc, ký âm với những chỉ dẫn về nhịp điệu, cung.
Thậm chí sau này, trên mỗi khuông nhạc lại được các nhạc sĩ ghi cả từng hợp âm để dễ dàng cho người đệm đàn ghita hoặc piano... Bìa bốn thường để giới thiệu danh mục những tờ nhạc đã được xuất bản, thậm chí đôi khi quảng cáo những lò dạy nhạc hoặc giới thiệu về nhạc sĩ sáng tác bản nhạc mà người mua đang cầm trên tay.
Theo như tài liệu mà tôi có, “cha đẻ” loại tờ nhạc này chính là ông Tăng Duyệt - giám đốc NXB Tinh Hoa. Ông sinh năm 1915, sống tại Huế, cha người Quảng Đông, mẹ người Việt. Là người mê sách, thấy có nhiều người cần đọc sách tại Huế lúc ấy nên ông mở hiệu sách Tân Hoa ở đường Gia Long, sau chuyển lên 121 Trần Hưng Đạo. Sau đó ông mở nhà in Tân Hoa rồi NXB Tinh Hoa chuyên xuất bản tác phẩm âm nhạc.
Sau lưng bìa 4 tờ nhạc có in rõ tôn chỉ của NXB Tinh Hoa như sau: “Để biểu dương một nguồn âm nhạc VN mới trên nền tảng văn hóa và nghệ thuật, NXB Tinh Hoa đã và sẽ lần lượt trình bày những nhạc phẩm chọn lọc giá trị nhất của các nhạc sĩ chân chính với một công trình ấn loát mỹ thuật để hiến các bạn yêu âm nhạc góp thành một tập nhạc quý”.
Có lẽ ông Tăng Duyệt, với cặp mắt kinh doanh và tâm hồn yêu văn nghệ, đã áp dụng sáng kiến của báo Ngày Nay trong việc dùng phương tiện ấn loát trên giấy để phổ biến nền nhạc mới. Vì từ tháng 9-1938, báo Ngày Nay đã đăng những bài tân nhạc đầu tiên như Bông cúc vàng, Kiếp hoa của Nguyễn Văn Tuyên; Bình minh, Ðàn xuân của Nguyễn Xuân Khoát; Khúc yêu đương của Thẩm Oánh; Bản đàn xuân của Lê Thương; Ðám mây rừng của Phạm Ðăng Hinh; Ðường trường của Trần Quang Ngọc. Báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy có đăng bản Con thuyền không bến của Ðặng Thế Phong.
NXB Tinh Hoa có thể đã được sáng lập năm 1943 nhưng không nói rõ bản nhạc đầu tiên được phát hành là của ai, mang tên gì. Theo sự tìm hiểu của tôi thì đứng đầu mục lục xuất bản từ năm 1945 là bài Đêm đông của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương và trong năm này chỉ in được tám tác phẩm (trong đó bốn tác phẩm Đêm đông, Trên sông Hương, Hương Giang một đêm trăng, Dưới bóng cờ là của Nguyễn Văn Thương. Phạm Duy có Chiến sĩ vô danh, Chinh phụ ca, Nợ xương máu và nhạc sĩ Dương Minh Ninh với bản Gấm vàng.
Sang năm 1946 là sự xuất hiện tên tuổi của nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu với bốn tác phẩm Giải phóng quân, Tuyên truyền xung phong, Núi Non Nước, Mùa đông binh sĩ trong tổng số tám tác phẩm và những tác phẩm còn lại là của Ngọc Trai, Nguyễn Hữu Ba, Văn Đông. Trong chương trình “Con đường âm nhạc” trên VTV1 hồi nào, nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu cho biết bài Giải phóng quân được trả 800 đồng, khi giá một bản nhạc là 7 đồng.
Suốt 11 năm tồn tại (nếu ra đời từ năm 1945), NXB Tinh Hoa của ông Tăng Duyệt đã tập hợp và xuất bản gần 500 ca khúc của hầu hết nhạc sĩ tiền bối từ trước đến nay như Văn Cao, Phạm Duy, Trần Hoàn, Văn Giảng (tức Thông Đạt), Thẩm Oánh, Hùng Lân, Dương Thiệu Tước, Phạm Đình Chương, Nguyễn Văn Thương, Nhật Bằng, Nguyễn Mỹ Ca, Hoàng Trọng, Hoàng Giác, Thu Hồ, Anh Việt, Lê Thương, Lưu Hữu Phước, Canh Thân, Tô Vũ, Phan Huỳnh Điểu, Ngọc Trai, Dương Minh Ninh, Văn Phụng, Hoàng Thi Thơ...
Tiếp theo sự ra đời của NXB Tinh Hoa, một loạt NXB đã ra đời sau đó như Thế Giới (Hà Nội), Sống Chung, Á Châu (Sài Gòn), An Phú, Hương Thu, Phương Mộc Lan (năm 1949), Diên Hồng, Nguyên Thảo - Phạm Thế Mỹ, Tiếng Bạn, Sóng Lúa, Tinh Hoa Miền Nam (hậu thân của Tinh Hoa do nhạc sĩ Lê Mộng Bảo phụ trách), Minh Phát, Lửa Hồng...
Về hình thức, từ những năm phôi thai các bản nhạc thường in typo. Bìa nhạc chỉ dùng hai màu do các họa sĩ Phi Hùng, Ngọc Tùng, Bạch Đằng Cát Mỹ vẽ theo lối tả chân, rất mượt mà. Khoảng thời gian ngắn sau xuất hiện họa sĩ Duy Liêm với lối vẽ lập thể, đầy góc cạnh, tạo ra một bộ mặt mới cho bìa nhạc. Rồi từ những NXB Diên Hồng, Minh Phát xuất hiện thêm những họa sĩ vẽ bìa tờ nhạc tài danh khác như Kha Thùy Châu, CVĐ.
Sau này từ đầu thập niên 1970, khi kỹ thuật in offset được các nhà in phát triển thì bìa tờ nhạc là ảnh của các ca sĩ trẻ, người đưa nhạc phẩm tới công chúng bằng con đường phát thanh - truyền hình như Thanh Lan, Khánh Ly, Nhật Trường, Duy Khánh, Giao Linh, Hoàng Oanh...
Người không thích hát vẫn có thể mua tờ nhạc này vì tờ nhạc in ảnh của thần tượng. Lợi cả đôi đường. Những người sưu tầm thì mua ngay khi nhạc phẩm mới được xuất bản rồi sau đó đóng lại thành tập. Nhờ vậy, các bản nhạc từ những ngày đầu còn được lưu giữ trong tay một số nhà sưu tầm trong cả nước.
Vô cùng bồi hồi khi xem lại từng tờ nhạc Tinh Hoa (thời ông Tăng Duyệt), An Phú, Phương Mộc Lan, Sống Chung... để thấy lịch sử, lòng yêu nước được thể hiện rất thành công và còn vang vọng đến hôm nay như nhiều tác phẩm Thăng Long hành khúc (nhạc Văn Cao, lời Văn Cao - Đỗ Hữu Ích - Tinh Hoa - 1955), Quyết tiến (Võ Đức Thu - 1953); Hờn sông Gianh, Ải Chi Lăng (Lưu Hữu Phước - 1953 - An Phú), Tiếng dân chài (Phạm Đình Chương - 1953, NXB Á Châu), Tiếng còi trong sương đêm (Lê Trực, AP), Đêm Lam Sơn (Thanh Toại)...
Nếu như ngày nay ta không thường được nghe lại những bản nhạc này thì chính tờ nhạc lại là “vật chứng” cho một giai đoạn hào hùng của thời kỳ nhạc mới. Các nhạc sĩ lớn trong sử nhạc VN như Nguyễn Văn Thương, Dương Minh Ninh, Hiếu Nghĩa, Thẩm Oánh, Văn Cao, Phạm Duy, Lê Trực (sau này là Hoàng Việt)... đều dùng nhạc “cải cách” để “khóc cười theo vận nước nổi trôi” và “Quyết tiến ta giống dân Lạc Hồng - Liều thân sống ta quyết giữ gìn non sông”...
Như từ đầu đã nói, sở dĩ tờ nhạc này tồn tại được nhờ đáp ứng được yêu cầu của người mê nhạc, mê hát, mê đàn. Nghe ca sĩ hát trên tivi, đài phát thanh, để hát và đàn được cho đúng bài bản thì không có cách nào khác phải mua tờ nhạc về để “tưng... tưng” theo.
Tờ nhạc không chỉ có những bài hát thời thượng như vậy mà còn có các bài “cao siêu” như Hương xưa (Cung Tiến), Serenade (Phạm Duy đặt lời), nhẹ nhàng thì có mấy bài Không tên số 1, 2, 3... (Vũ Thành An), Diễm xưa (Trịnh Công Sơn)... Những tờ nhạc này đã đưa bản nhạc, nhạc sĩ đến gần người yêu nhạc. Trong một số tờ nhạc cũ tôi sưu tầm được thấy có người còn ghi cả tên nốt ngay từng hình nốt.
Không chỉ tập đàn nhạc trong nước, họ còn được tiếp cận nhạc nước ngoài được viết lời Việt như Sóng tà dương (NXB An Phú - 1952), Chiều tà (nhạc Enrico Toselli, lời Phạm Duy), Đón gió (1953), Sầu (nhạc Chopin, lời Phạm Duy), Mối tình xa xưa (nhạc Johannes Brahms, lời Phạm Duy, NXB Á Châu).
Sau năm 1975, thể loại tờ nhạc này còn sống được qua NXB Âm Nhạc Giải Phóng khi cho phát hành một số bài hát cách mạng và NXB Trẻ in lại những tác phẩm để đời của một số nhạc sĩ lớn với kỹ thuật in hiện đại và rất đẹp. Tiếc rằng do thu hồi không đủ vốn(?) nên đã khai tử việc xuất bản ấn phẩm này. Từ đó, tờ nhạc mất hẳn trong những hiệu sách và các nhạc phẩm chỉ còn hiện diện trong những tuyển tập nhạc in chung nhiều tác giả.
No comments:
Post a Comment